5 giai đoạn điều trị ung thư âm hộ

Phẫu thuật, hóa trị và xạ trị có thể là những biện pháp điều trị được lựa chọn. Các lựa chọn điều trị sẽ phụ thuộc vào loại ung thư cũng như vị trí và kích thước của khối u đó.

xáo tam phân trị ung thư

Giai đoạn 0 và các tổn thương tiền ung thư: Các tổn thương sớm này có thể điều trị bằng sinh thiết cắt bỏ tổn thương hoặc đốt bằng Laser CO2 hoặc kết hợp cả hai hoặc sử dụng các phương pháp loại bỏ khác. Đối với các tổn thương liên quan với nhiễm HPV có nguy cơ tái phát, cần theo dõi sát sau điều trị để phát hiện sớm tổn thương mới ngay khi còn nhỏ.

Giai đoạn IA
Đối với các trường hợp xâm lấn chỉ tại bề mặt (≤ 1 mm tính từ nơi tiếp giáp biểu mô-mô đệm ở chỗ nhú biểu bì sâu nhất cho tới nơi xâm lấn sâu nhất) về cơ bản thường không di căn hạch. Những tổn thương này có thể điều trị bằng cắt bỏ tại chỗ rộng rãi, đảm bảo diện cắt an toàn (không chỉ chiều rộng mà cả chiều sâu). Thông thường diện cắt cách bờ tổn thương 1 cm.

Giai đoạn IB và II
Điều trị ung thư âm hộ theo giai đoạn bệnh

Đối với các tổn thương đường kính dưới 2 cm và chiều sâu xâm lấn không quá 5 mm có thể cắt rộng u với đảm bảo diện cắt an toàn cách bờ tổn thương ít nhất 1 cm. Đối với các trường hợp còn lại có thể phẫu thuật cắt bỏ âm hộ một bên hoặc cắt bỏ âm hộ triệt căn biến đổi tuỳ theo mức độ tổn thương, cố gắng đảm bảo diện cắt an toàn cách bờ tổn thương ít nhất 2 cm.

Khả năng di căn hạch bẹn cùng bên tăng lên cùng với kích thước u và độ sâu của xâm lấn. Vì vậy, vét hạch bẹn-đùi là phần không thể thiếu. Đầu tiên, lấy các hạch cùng bên tổn thương ở phía trên mạc sàng và cho đến nơi mở của mạc này tại lỗ oval (khe hiển). Không cần thiết phải bóc mạc đùi để lấy hạch đùi. Nếu kết quả sinh thiết tức thì hạch âm tính, không cần vét hạch đối bên. Nếu kết quả sinh thiết tức thì hạch dương tính, cần vét hạch đối bên. Đối với các trường hợp u nằm trên đường giữa (tổn thương cả hai bên), cần vét hạch bẹn-đùi hai bên.

Xạ trị tại chỗ sau phẫu thuật dành cho các trường hợp diện cắt cách bờ tổn thương dưới 8 mm, xâm lấn mao mạch bạch huyết, tổn thương xâm lấn trên 5 mm về chiều sâu và các bệnh nhân có hạch dương tính.

Đối với một số bệnh nhân không thể phẫu thuật triệt căn hoặc không thích hợp với phẫu thuật do điều kiện sức khoẻ không cho phép, có thể xạ trị đơn thuần.

Giai đoạn III
Ngoại trừ yếu tố tuổi tác, các bệnh kèm theo làm hạn chế khả năng phẫu thuật, cần phân chia các trường hợp ở giai đoạn III thành nhóm mổ được và không mổ được. Nếu khả năng cắt bỏ tổn thương nguyên phát với diện cắt không còn mô ung thư, không làm tổn hại các cơ thắt ảnh hưởng đến đại tiểu tiện, nên xem xét phẫu thuật.

Đối với các trường hợp khối u nguyên phát nhỏ (T1), có thể phẫu thuật cắt u rộng rãi (diện cắt cách bờ u ít nhất 2 cm) kết hợp vét hạch bẹn-đùi.

Đối với các trường hợp khối u lớn (T2), có thể phẫu thuật cắt bỏ âm hộ triệt căn kết hợp vét hạch bẹn-đùi. Các trường hợp khối u xâm lấn rộng (T3), có thể cân nhắc phẫu thuật rộng rãi với khả năng có thể nếu không có quá nhiều biến chứng và di chứng và là cách lựa chọn tốt nhất. Kèm theo cần vét hạch bẹn-đùi.

Đối với các trường hợp u nằm trên đường giữa (tổn thương cả hai bên), cần vét hạch bẹn-đùi hai bên.

Xạ trị tại chỗ sau phẫu thuật dành cho các trường hợp diện cắt cách bờ tổn thương dưới 8 mm, xâm lấn mao mạch bạch huyết, tổn thương xâm lấn trên 5 mm về chiều sâu và các bệnh nhân có hạch dương tính. Việc nêu ra điều kiện này chỉ mang tính chất giả thiết ở những trường hợp rất hiếm. Đa số UTAH giai đoạn III cần xạ trị Liều xạ từ 45-50 Gy. Các trường hợp có từ 2 hạch bẹn dương tính trở lên cần xạ trị cả hạch bẹn và khung chậu.

Đối với một số trường hợp xâm lấn rộng, phẫu thuật ảnh hưởng tới đại tiện hoặc tiểu tiện sau này hoặc hạch cố định khó có thể lấy bỏ được có thể được xem là các trường hợp không mổ được. Các trường hợp này nên xem xét khả năng xạ trị hoặc hoá xạ trị đồng thời trước mổ nhằm tăng khả năng mổ được và giảm mức độ tàn phá của phẫu thuật rộng. Liều xạ cần đạt là 55 Gy. Một số trường hợp đáp ứng hoàn toàn sau xạ trị hoặc hoá xạ trị có thể không cần phẫu thuật.

Đối với một số bệnh nhân không thể phẫu thuật triệt căn hoặc không thích hợp với phẫu thuật hoặc do vị trí bệnh hoặc bệnh lan rộng hoặc do điều kiện sức khoẻ không cho phép, có thể xạ trị đơn thuần hoặc hoá xạ trị đồng thời với liều xạ không quá 65 Gy.

Giai đoạn IV
Đối với các trường hợp T1,2,3N2M0, xử trí tương tự giai đoạn III. Các trường hợp này đều cần xạ trị (sau hoặc trước mổ hoặc xạ trị đơn thuần).

Đối với các trường hợp T4N0,1,2M0, xét khả năng phẫu thuật khoét chậu hông (pelvic exenteration) nếu đủ điều kiện. Nếu không thực hiện được phẫu thuật này, xạ trị hoặc hoá xạ trị đồng thời trước, sau đó xem xét khả năng phẫu thuật đơn giản hơn.

Đối với các trường hợp di căn xa, phương pháp điều trị chủ yếu là điều trị giảm nhẹ, có thể kết hợp điều trị hoá chất thăm dò nếu thể trạng bệnh nhân cho phép. Phẫu thuật và xạ trị đối với các trường hợp này cũng có ích giúp giải quyết một số triệu chứng.

Mách nhỏ bạn đọc

xao tam phan

Giá: 900.000 VNĐ/kg

Xáo tam phân có chứ một loại Saponin có tên gọi là Ginsenoside Rh2 đã được chứng minh là có thể kiềm chế sự sinh trưởng, phát triển của các tế bào ung thư và khôi phục lại chức năng bình thường của tế bào. Ngoài ra, nó còn có khả năng phòng chống sự xâm lấn và di căn của các tế bào ác tính.


Thông tin liên hệ

Công Ty nam lim xanh - gtd

Địa chỉ: 428 Điện Biên Phủ, Phường 11, Quận 10, Tp HCM

Hotline: 0925.500.600 hoặc 0923.010.989 – Ms. Hà hoặc (08) 3968 3680

Comments

comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *